50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái

30/05/2019 | 6:27

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam, cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Mỗi lời nói hành động và việc làm của Người đều hướng tới lợi ích thiết thực của con người, hướng tới sự hài hòa giữa […]

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam, cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Mỗi lời nói hành động và việc làm của Người đều hướng tới lợi ích thiết thực của con người, hướng tới sự hài hòa giữa con người, xã hội với thiên nhiên trong đó việc bảo vệ môi trường sinh thái cũng không nằm ngoài mục đích đó.

 

Ảnh tư liệu

Cách đây 50 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa mãi mãi nhưng những tư tưởng, tình cảm của Người đối với toàn Đảng, toàn dân ta thì sống mãi trong sự nghiệp phát triển của đất nước. Trước khi đi xa Người đã kịp để lại cho chúng ta bản Di chúc lịch sử với những nội dung đề cập đến nhiều vấn đề quan trọng có tính chiến lược đối với đất nước, dân tộc, Đảng và quốc tế, Người đề cập đến những vấn đề cụ thể, thiết thực liên quan đến từng ngành, từng lĩnh vực. Một trong những nội dung đó là vấn đề bảo vệ môi trường. Đây là một vấn đề đang được quan tâm, có tính thời sự và cấp bách toàn cầu.

Suốt quá trình viết Di chúc bắt đầu từ ngày 10/5/1965 đến khi Di chúc được công bố tháng 9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉnh sửa bổ sung để hoàn thiện, trong nhiều những nội dung quan trọng căn dặn lại cho toàn Đảng, toàn dân ta thì Người có đề cập đến vấn đề môi trường sinh thái, Người viết:”Tôi yêu cầu thi hài tôi được đốt đi, nói chữ là “hỏa táng”. Tôi mong rằng cách “hỏa táng” dần dần sẽ được phô biến. Vì như thế đối với người sống đã tốt vê mặt vê sinh lại không tốn đất”…Phát triển công tác vệ sinh” (Di chúc năm 1968). Bao giờ ta có nhiều điện, thì “điện táng” càng tốt hơn”. ” Nên có kế hoạch trồng cây trên và chung quanh đồi. Ai đến thăm thì trồng một vài cây làm kỷ niệm. Lâu ngày, cây nhiều thành rừng sẽ tốt cho phong cảnh và lợi cho nông nghiệp… ” (Di chúc năm 1965).

Sinh thời, Chủ thường xuyên quan tâm đến vấn đề trồng cây và bảo vệ môi trường sinh thái. Năm 1947, khi nước nhà mới giành độc lập, trong tác phấm “Đời sống mới” (bút danh Tân Sinh), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu hai phương diện của môi trường là môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. về môi trường tự nhiên, Người viết: “về vệ sinh, đường sá phải sạch sẽ. Ao tắm giặt, giếng nước uống phải phân biệt và chăm sóc cắn thận. Những ao hồ không cần thì lấp đi, cho đỡ muôi. Phải có câu xia chung, hoặc cầu xỉa riêng từng nhà. Đã khỏi hôi thổi, ruồi nhặng, lại cỏ phân tốt”1

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi vấn đề giữ gìn vệ sinh môi trưòng là một trong những công việc quan trọng nhất trong sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân, dân. Người đã đưa “vệ sinh phòng bệnh” vào nội dung của phong trào thi đua yêu nước, Người khởi xướng phong trào “Vệ sinh yêu nước” và được nhân dân nhiệt tình hưởng ứng tạo thành một phong trào thi đua sôi nổi, rộng khắp. Nhũng phong trào vệ sinh phát triến mạnh mẽ khi đó như vệ sinh phòng bệnh, diệt muôi, đào giếng khơi, xây dựng nhà vệ sinh…

Những lời Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy về vệ sinh môi trường thật dung dị, dễ hiểu. Ví dụ, khi kêu gọi toàn dân tham gia diệt ruồi muỗi, Người nói: “Ruồi muỗi là bạn đồng minh của giai cáp bóc lột. Nó gây ra nhiều bệnh tật, làm cho nhân dân ta om đau. Người ốm đau thì sức lao động bị giảm sút, công cuộc phát triển kinh tế và văn hóa bị hạn chế. Vì vậy, chúng ta phải ra sức tiêu diệt những kẻ địch độc ác là ruồi, muôi, đê tiêu diệt bệnh tật, bảo vệ sức khỏe của nhân dân”2. Người chỉ ra mối quan hệ hữu cơ giữa lao động, vệ sinh và sức khỏe: “Làm cho đồng bào hiếu rằng muốn lao động sản xuất tốt thì phải giữ gìn sức khỏe. Muôn giữ gìn sức khỏe thì phải ăn sạch, uống sạch, mặc sạch, ở sạch”3 và Người nêu ra nguyên nhân của một số bệnh thường gặp là do ăn ở thiếu vệ sinh “Ở đây đồng bào còn nhiều người sốt rét, các cháu bẻ thường thường đau mắt hột, bụng to. Vì sao? Vì không biết giữ vệ sinh. Đồng bào cỏ muốn cỏ sức khỏe dế sản xuất không? cỏ muốn con cháu mình không đau mắt hột? Không bụng to thế này không? Muốn thế phải giữ gìn vệ sinh, ăn uổng sạch sẽ, nhà cửa sạch sẽ, vườn cũng sạch sẽ…” . Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú ý tới việc nâng cao nhận thức về môi trường cho mọi người: “Phải tuyên truyền một cách thiết thực và rộng khắp trong nhân clân… làm cho đồng bào hiếu rõ: phải giữ gìn vệ sinh, ăn sạch, uống sạch, mặc sạch, ở sạch thì mới khoẻ; sức càng khoẻ thì lao động sản xuất càng tốc”5.Người cũng đặc biệt chú ý giáo dục vệ sinh cho lứa tuổi thiếu niên nhi đồng. Một trong 5 điều Bác Hồ dạy thiếu niên nhi đồng là”Giữ gìn vệ sinh thật tốt ” (Thư gửi Thiếu niên nhi đồng năm 1961 và bổ sung nội dung vào năm 1965).

Và đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn bảo đảm môi trường sinh thái được cải thiện thì “Vì lời ích mười năm phải trồng cây”. Người quan niệm rằng trồng cây không chỉ là công việc nông lâm đơn thuần, mà lấy việc trồng, bảo vệ cây xanh là đòn bẩy cho hoạt động bảo vệ môi trường và còn có ý nghĩa quan trọng là giáo dục đạo đức lao động, đặc biệt là nâng cao ý thức trách nhiệm của nhân dân trong việc bảo vệ môi trường sinh thái. Vì vậy, ngay từ những ngày đầu tại căn cứ địa Việt Bắc, trên những chặng đường kháng chiến gian khổ, nơi ở của Chủ tịch Hồ Chí Minh thường giản dị với tranh, tre, lá, nứa, cây rừng… và có thêm một mảnh đất để tăng gia trồng rau. Trong hoàn cảnh khắc nghiệt của cuộc chiến, Người vẫn chủ trương bảo vệ rừng và dựa vào địa hình thiên nhiên để xây dựng căn cứ bí mật, phục vụ cho công cuộc trường kỳ kháng chiến. Ông Hoàng Hữu Kháng, người bảo vệ Bác từ 1941-1951 kể, những năm ở chiến khu, khi tìm chỗ làm nhà cho Bác. Bác luôn căn dặn cán bộ phải chọn những nơi ở đảm bảo các tiêu chí: “trên có núi, dưới có sông, có đất ta trồng, có bãi ta vui”6. Đến địa điểm mới, Người cùng cán bộ bắt tay ngay vào việc cuốc đất trồng cây vừa để cải thiện đời sống, vừa để hòa nhập vào thiên nhiên.

Sau ngày kháng chiến thành công, trở về Hà Nội làm việc trong Khu Phủ Chủ tịch, Bác chuyển đến sống và làm việc trong một ngôi nhà sàn giản dị nằm giữa vườn cây xanh, bên bờ ao trong mát, Người đã trồng rau, trồng hoa, cây ăn quả, nuôi cá ở Phủ Chủ tịch. Ông Đinh Đăng Định, người chụp ảnh cho Bác kể: những năm ở gần Bác, ông thấy Bác thương cả cây cỏ, chim muông. Bác cấm anh em tuyệt đối không ai được bắn chim. Bác bảo: “Để chúng hót cho vui! Chim cu hót hay lắm”7. Nhà thơ Cu-ba Félix Pita Rodríguez, sau khi đến thăm nhà sàn Bác Hồ tại Phủ Chủ tịch đã nhận xét: “Chúng tôi được biết có hai điều Bác Hồ yêu thích, đó là hoa và tiếng chim ca. Hoa và chim luôn luôn ở bên Người. Ngôi nhà nhỏ của Bác nhìn ra phía nào cũng có một ô cửa sổ, một bức tranh bằng ánh sáng, trong đó hiện ra những cành cây, và khi gió nhẹ thổi qua, bức tranh như có sức sống”8. Hai vị khách Thụy Điển sau khi đến thăm nơi ở và làm việc của Người tại Phủ Chủ tịch đã nói:” Ttrước đây, chúng tôi không thể tưởng tượng rằng Hồ Chí Minh tự tay cho cá ăn, trồng cây, đánh máy chữ…Được tận mắt nhìn thấy những gì trong khu di tích này, chúng tôi rất khâm phục một con người lỗi lạc như ông”9. Giữa trăm công nghìn việc bận rộn lo cho nước, cho dân khi hai miền Nam – Bắc còn bị chia cắt, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn sống bình dị và hoà mình với thiên nhiên như để tìm cái ung dung tự tại, sự bình tĩnh thanh thản mà sẵn sàng ứng phó với mọi biến cố phức tạp. Cũng từ khu vườn cây này, Chủ tịch Hồ Chí Minh như minh chứng cho lời nói đi đôi với hành động của Người trong vấn đề trồng cây bảo vệ môi trường sinh thái.

Bên cạnh đó mỗi lần đi thăm các địa phương Chủ tịch Hồ Chí Minh đều lưu ý đến vấn đề trồng cây không chỉ để bảo vệ môi trường sinh thái mà đó cũng là việc làm để nâng cao đời sống cho bà con. Năm 1957, dịp Bác Hồ về thăm Quảng Bình, Tỉnh ủy đã tổ chức buổi liên hoan văn nghệ chào mừng Bác tại bãi cát trống ven biển. Cuối buổi văn nghệ Bác đứng dậy, nói với mọi người: “Để kỷ niệm tôi vui của bác cháu ta. Bác đề nghị mỗi cháu ở đây phải trồng một cây phi lao để chắn gió”. Mọi người đồng ý và xin Bác được trồng 2 cây. Bác đồng ý và căn dặn: “Nhưng phải đảm bảo trồng cây nào cũng phải sống và xanh tốt. Các cháu nhớ báo cáo tình hình cho Bác biết”10. Khi đến thăm Trường Trung cấp Thể dục thể thao Từ Sơn, Người căn dặn: “Nên cố gắng trồng nhiều cây có bóng mát để học sinh có nơi trú nắng”11. Đặc biệt, từ năm 1959 đến đầu năm 1969, Bác Hồ đã viết 7 bài viết kêu gọi trồng cây trong các năm 1959, 1960, 1963, 1964 1965, 1969, riêng năm 1960 Bác viết 2 bài. Qua đó, chúng ta đã biết Bác quan tâm đến việc trồng cây gây rừng đến mức nào. Trong mỗi bài, Bác đều đưa ra những dẫn chứng, lợi ích của việc trồng cây: vừa có tính kinh tế, an ninh, quốc phòng, vừa mang tầm chiến lược lâu dài. Như trong bài: “Tết trồng cây”, đăng trên Báo Nhân dân số 2082, ngày 28/11/1959, Người nêu rõ: “Việc này tốn kém ít mà lợi ích rất nhiều… Nước ta phong cảnh sẽ ngày càng t­ươi đẹp, khí hậu điều hoà hơn, cây gỗ đầy đủ hơn. Điều đó sẽ góp phần quan trọng vào việc cải thiện đời sống của nhân dân ta…”12. Ngày 9/5/1961, nói chuyện với nhân dân đảo Cô Tô, Hải Ninh (nay là Quảng Ninh). Người căn dặn: “Cần trồng nhiều cây ăn quả, cây lấy gỗ, cây ngăn gió. Trồng cây sẽ đưa lại cho nhân dân ta một nguồn lợi to, lại làm cho xứ sở ta thêm đẹp”13. Ngày 1/1/1965, trong bài Hãy nhiệt liệt tổ chức tết trông cây đăng trên Báo Hà Đông, Người chỉ rõ: “muốn xây dựng nông thôn mới… là xây dựng lại nhà ở cho đàng hoàng. Muốn vậy thì ngay từ bây giờ phải trồng cây nhiều tốt để lấy gỗ và để chống gió cát, bảo vệ ruộng, chông sói mòn…”14.

Không chỉ kêu gọi mọi người tích cực trồng cây, gây rừng mà Bác Hồ yêu cầu phải có ý thức trách nhiệm bảo vệ cây để bảo vê môi trường. Quanh bờ dậu trước nhà sàn Bác thường cho anh em trồng cây dâm bụt. Bác thích loại cây đó, vì nó gần gũi, thường gặp ở vùng quê. Một lần, ông Đinh Đăng Định chụp ảnh cho Bác, nhưng có một cành cây nhỏ làm vướng máy, ông vít cành định bẻ đôi thì Bác ngăn lại và nói: “Ấy chú đừng bẻ! tuy nó không cho quả ăn, những cũng cho bóng mát”15. Một lần khác thấy các đồng chí cảnh vệ chặt cây để làm hầm, Bác bảo: “Cây rừng là của ta, ta phải giữ gìn để bảo vệ môi trường”16.  Lần khác Bác cùng anh em đi công tác ở Sơn Tây, khi ngồi nghỉ, chợt có đồng chí vứt mẩu tàn thuốc lá ra sườn đồi, Bác quay lại nhắc ngay: “kìa, dập đi chú, tàn lửa có thể làm cho cả đồi cỏ bị cháy đấy! Nếu ta không biết giữ thì một đốm lửa có thể làm cháy cả một khu rừng”17. Tại Hội nghị Tuyên giáo miền núi năm 1963, Bác ân cần nhắc nhở: “Các cô, các chú cần hết sức chú ý vấn đề bảo vệ rừng. Nếu cứ để tình trạng đồng bào phá một ít, nông trường phá một ít, công trường phá một ít, thậm chí đoàn thăm dò địa chất cũng phá một ít, thì rất tai hại. Phá rừng thì dễ, nhưng gây dựng lại rừng phải mất hàng chục năm. Phá rừng nhiều như vậy sẽ ảnh hưởng đến khí hậu, ảnh hưởng đến sản xuất, đời sống rất nhiều”18. Đúng như lời dạy của Bác, thực tế hiện nay, rừng có “ông chủ” là các cơ quan, đơn vị của Nhà nước, nhưng rừng vẫn bị tàn phá (?). Trong thư gửi Đại hội Hợp tác xã và đội sản xuất tiên tiến miền núi và trung du, Bác nhắc nhở: “Hợp tác xã nào cũng phải có kế hoạch trồng rừng và tích cực bảo vệ rừng. Nếu rừng kiệt thì không còn gỗ và mất nguồn nước thì ruộng nương mất màu, gây ra lụt lội và hạn hán. Vì vậy, đồng bào miền núi và trung du cũng như đồng bào miền xuôi lên tham gia, phát triển kinh tế ở đây phải bảo vệ rừng như bảo vệ nhà cửa của mình”19.

Người xót xa trước cảnh rừng bị tàn phá, khai thác bừa bãi và cho rằng, “những cây gỗ to bị chặt để đốt hay để cho mục nát thì không khác gì đồng bào tự mình đem tiền bạc bỏ xuống sông”. Người cảnh báo nhân dân ta về sự nguy hại của việc chặt, phá khai thác rừng bừa bãi, dẫn đến sự phá vỡ cân bằng môi trường sinh thái, ảnh hưởng đến khí hậu, đời sống sản xuất. Năm 1968, đồng chí Đại tá Đàm Quang Trung, Tư lệnh Trưởng Quân khu IV, đóng tại xã miền núi tỉnh Quảng Bình có bắn được một con Hổ dữ chuyên vào vồ lợn của bà con. Sau khi thịt xong, Ban quân y tiền phương đem bộ xương nấu cao và cử người mang ra biếu Bác vài ba lạng. Hôm sau đồng chí Đàm Quang Trung được ra Hà Nội dự họp Tổng kết chiến dịch Mậu Thân năm 1968. Sau khi họp xong, ông được Bác mời vào Phủ Chủ tịch ăn cơm với Bác cùng Đại tướng Võ Nguyên Giáp và nói: “Chiến tranh, bộ đội thường phải trú quân trong rừng nên phải hướng dẫn cho anh em tận dụng hang động, hạn chế tối đa việc chặt cây, phá rừng. Chặt cây động rừng, muông thú không có nơi ở phải bỏ đi lang thang. Bộ đội ở rừng gặp thú rừng là đương nhiên. Trong tay lại có súng, có đạn nên việc sát hại thú rừng là dễ xẩy ra lắm. Chú về chỉ thị, nhắc nhở toàn quân không được săn bắn thú rừng… Ta lại còn săn bắn nữa thì nay mai đất nước hòa bình, giang sơn đâu còn là rừng, rừng đâu còn muông thú? Thế chẳng khác gì đất không có người, sông không có cá”20.

Hưởng ứng lời kêu gọi trồng cây, bảo vệ cây, góp phần bảo vệ môi trường của Bác Hồ, các tầng lớp nhân dân đã tham gia tích cực và tạo thành một phong trào sâu rộng. Sau 5 năm (1960-1965), toàn miền Bắc đã trồng được hơn 575 triệu cây các loại, trong đó có hơn 200 triệu cây trồng ven biển để bảo vệ đê. Đồng thời, xuất hiện nhiều cá nhân, tập thể điển hình về phong trào trồng cây như: hợp tác xã Lạc Trung, Ngọc Long, Vĩnh Quang; các tỉnh Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Thái Bình, Thanh Hoá, Nghệ An… phong trào dần dần lan toả rộng khắp và mang lại nhiều ý nghĩa thiết thực cho cuộc sống của con người…

Để kịp thời động viên, khuyến khích những cá nhân, tập thể có thành tích trong phong trào trồng cây, khi đọc báo Trung ương và địa phương, thấy có những tin bài viết về những gương người tốt, việc tốt, về trồng cây, Bác đánh dấu lại và thưởng huy hiệu của Người cho những cá nhân có thành tích trồng cây xuất sắc: bài “Người xã viên trăm cây” đăng báo Nhân dân, ngày 22/2/1960, viết nêu gương cụ Đỗ Đăng Hoè, xã viên HTX An Trường, Ứng Hòa, Hà Đông, 61 tuổi, trồng 110 cây Nhãn trên hai bờ mương. Bác đã dùng bút chì đỏ đánh dấu thưởng huy hiệu cho cụ. Bài “Trồng 73 cây đều sống” đăng báo Nhân dân, ngày 28/3/1960, viết về nêu gương cụ Chu Duy Sỹ, 60 tuổi ở xã Nguyệt Đức, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Yên tích cực trồng chăm sóc cây, Bác lại dùng bút chì xanh đánh dấu bằng chữ Hán thưởng huy hiệu cho cụ. Bài”Một người mù làm cho tổ quốc tươi xanh tươi” đăng báo Nhân dân ngày 2/9/1962, viết về nêu gương anh Cao Xuân Nhì, 21 tuổi ở xã Thanh Xuân, huyện Kim Anh, tỉnh Vĩnh Phúc mù cả hai mắt vẫn tích cực trồng cây, Người đánh dấu thưởng huy hiệu cho anh. Bài “áp dụng kỹ thuật vào tăng năng suất trồng cây”, báo Tây Bắc, ngày 1/6/1966 nêu gương Cụ Hà Văn An, 60 tuổi ở Chiềng Cheng, Mai Sơn, Tây Bắc có nhiều sáng tạo trong sản xuất, vận động bà con dân tộc áp dụng kỹ thuật vào tăng năng suất trồng cây,  Người đánh dấu thưởng huy hiệu cho cụ. Ngày 18/1/1968, bản tin Việt Nam Thông tấn xã đăng tin”Cụ già trồng 4 vạn cây”, viết nêu gương cụ Trương Văn Húc xã T- Hà Tĩnh đã trồng 4 vạn cây trên đoạn đường 6km trong điều kiện máy bay Mỹ oanh tạc liên tục, Người đánh dấu thưởng huy hiệu cho cụ.… Ngoài ra, Người biểu dương thôn Lạc Trung (Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc): “Hồi kháng chiến bị giặc Pháp đốt sạch, không còn một gốc cây nào. Nhờ trồng cây có kế hoạch nên từ một thôn trơ trọi chỉ sau vài năm Lạc Trung trở nên xanh tươi nhất trong cả huyện Vĩnh Tường…Bà con xem đó, do Tết trồng cây mà đất nước ta càng thêm xanh tươi, nhân dân ta càng thêm giàu có”21.

Quan điểm trồng cây và bảo vệ môi trường sinh thái của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta bài học quý báu, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay nhân loại đang đối diện với rất nhiều vấn đề bức xúc về môi trường. Vì vậy nhằm thực hiện Di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái, Đảng ta nêu rõ: “Nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của toàn xã hội, trước hết là của cán bộ lãnh đạo các cấp về bảo vệ môi trường. Khẩn trương hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường; xây dựng chế tài đủ mạnh để ngăn ngừa, xử lý nghiêm các hành vi gây ô nhiễm môi trường. Ngăn chặn có hiệu quả nạn phá rừng, cháy rừng và tình trạng khai thác tài nguyên bừa bãi; xử lý nghiêm các cơ sở gây ô nhiễm, khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường”. Đồng thời “đưa nội dung bảo vệ môi trường vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, vùng và các chương trình, dự án đầu tư. Các dự án, công trình đầu tư xây dựng mới bắt buộc phải thực hiện nghiêm các quy định bảo vệ môi trường. Quản lý, khai thác hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo đảm cân bằng sinh thái. Chú trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường; từng bước phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch. Chủ động nghiên cứu, đánh giá, dự báo tác động của biến đổi khí hậu đối với nước ta; thực hiện có hiệu quả chương trình mục tiêu quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu; tích cực tham gia, phối hợp cùng cộng đồng quốc tế hạn chế tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, bảo vệ hệ thống khí hậu trái đất…”22

Để hiện thực hóa chủ trương đường lối và chính sách của Đảng, hiện nay chúng ta đã thành lập Ủy ban ban bảo vệ môi trường; chủ động tham gia các Hội nghị đối tác về chống biến đổi khí hậu tại Côbenhaghen – Đan Mạch và các Hội nghị quốc tế khác về bảo vệ môi trường. Đồng thời hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường từng bước được hoàn thiện như: Luật Bảo vệ môi trường, Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Luật Tài nguyên nước, Luật Đất đai và công bố nhiều văn bản dưới luật, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ công tác bảo vệ môi trường. Các hình thức tuyên truyền về bảo vệ môi trường ngày càng phong phú đa dạng hơn, như ra bản tin, đưa vào quy ước, hương ước cộng đồng, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về môi trường, liên hoan phim về môi trường… Hoạt động nâng cao nhận thức về môi trường không chỉ dừng lại ở các sinh hoạt mang tính văn hóa – xã hội, mà còn là yếu tố quan trọng thúc đẩy tiến trình xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường. Hàng năm mỗi dịp tết đến xuân về Đảng, Nhà nước và nhân dân ta tiếp tục duy duy trì được truyền thống tốt đẹp mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khởi xướng.

Tuy nhiên hiện nay nước ta cũng như các nước trên thế giới đang phải đối mặt với nhiều thách thức trong công tác bảo vệ môi trường, đó là nạn phá rừng đang xảy ra nghiêm trọng, độ che phủ rừng ngày càng giảm đi; tình trạng ô nhiễm môi trường ở các đô thị, các khu công nghiệp, các làng nghề thủ công ngày càng tăng; dân số tăng nhanh cũng gây ra áp lực đối với hệ sinh thái nói chung; việc nhập khẩu công nghệ lạc hậu, có nguy cơ biến nước ta thành bãi thải cho hàng hóa kém chất lượng, hàng hóa không thân thiện với môi trường từ các nước khác nhập vào. Nhiều khu công nghiệp với hàng trăm hàng nghìn nhà máy đang xả chất thải sản xuất trực tiếp ra môi trường, gây ô nhiễm nguồn nước và đất đai. Nạn chặt phá rừng, buôn bán gỗ lậu, khai thác tài nguyên, khoáng sản diễn ra ngày càng tinh vi trên khắp các cánh rừng gây ra nhiều hậu quả nặng nề như làm gia tăng nhiệt độ trái đất kéo theo lũ lụt, sạt lở đất… Cùng với đó là việc loài người đang phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng về môi trường đó là: Sự nóng lên của trái đất và nước biển dâng; là tình trạng ô nhiễm môi trường (nước, không khí, tiếng ồn, phóng xạ…), dịch bệnh (cúm, HIV/AIDS); là khủng hoảng năng lượng, tài nguyên bị khai thác cạn kiệt (đất, nước, rừng, khoáng sản, động thực vật…), tình trạng tranh chấp tài nguyên thiên nhiên… Điều đó đã ảnh hưởng tới sản xuất, đời sống và tăng trưởng kinh tế của các nước, mà không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết được nếu không có sự hợp tác, phối hợp với nhau chung ta bảo vệ môi trường sống của loài người. Vì vậy, đòi hỏi mỗi người Việt Nam chúng ta phải quán triệt một cách sâu sắc hơn ý nghĩa của việc bảo vệ, giữ gìn và tăng cường, nâng cao chất lượng của môi trường sinh thái. Đồng thời phải có những hành động, biện pháp chiến lược thiết thực và cụ thê đế thường xuyên giáo dục cho các tầng lớp nhân dân ta thực hiện, học tập và làm theo những lời dạy và việc làm của Bác Hồ, đế lời dạy của Người về bảo vệ môi trường trong Di chúc được thực hiện một cách có hiệu quả nhất.

Th.S Nguyễn Văn Dương & Th.S Lường Thị Lan

Chú thích:

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, 1995, tập 5. tr 101

2. Hồ Chí Minh: Toàn tập. Nxb. Chính trị Quốc gia. 1996, tập 9, tr 190.

3. Hồ Chí Minh: Toàn tập. Nxb. Chính trị Quốc gia, 1996, tập 10, tr 335.

4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, 1996, tập 9, tr 442.

5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, 1996, tập 10, tr 321, 322

6. Học tập tấm gương đạo đức Bác Hồ: Bảo tàng Hồ Chí Minh, Nxb Thanh niên, H, 2006, tr. 302

7.  Sáng ngời tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, Nxb, Thông tấn, H, 2007, tr.64

8. Vĩ đại một con người: Trần Văn Giàu, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2008, tr.73

9.  Kể chuyện đạo đức Bác Hồ, Nxb, Thanh niên, H, 2007, tr.175

10. Vĩ đại một con người: Trần Văn Giàu, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2008, tr.73

11. Kể chuyện đạo đức Bác Hồ, Nxb, Thanh niên, H, 2007, tr.175

12. Rừng cây Bác Hồ trên bãi biển, Báo Quảng Bình, số cuối tháng 9, năm 1994

13. Bác Hồ với thể dục thể thao Việt Nam, Nxb Thể dục thể thao, H, 1995, tr.98

14. Báo Nhân dân số 2082, ngày 28-11-1959; số 3228, ngày 27-1-1963

15.  Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2011, tập XI, tr.354, 357

16. Học tập tấm gương đạo đức Bác Hồ: Bảo tàng Hồ Chí Minh, Nxb Thanh niên, H, 2006, tr. 302

17. Kể chuyện đạo đức Bác Hồ, Nxb, Thanh niên, H, 2007, tr.146

18. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2011, tập 14, tr.165

19. Hồ Chí Minh – Tuyển tập, NXB Sự thật, H, 1980, tập 2, tr.334

20. Báo Pháp luật Việt Nam, số: 106 (3828), ngày 4/5/2009

21. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, H, 2011, H, 2011, tập 10, tr.263-264

                                                                                                                                                      Theo: bvhttdl.gov.vn

Bài viết liên quan

Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số

Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thật sự trở thành sức mạnh nội sinh, tạo động lực cho phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Đây cũng chính là cơ sở quan trọng trong việc định hướng, xây dựng chính sách bảo tồn, phát huy, quảng bá giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.

Xem thêm

Tôn vinh và phát huy giá trị bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số 

Văn hóa là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước hào hùng, hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh dân tộc Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc ta. Đóng góp một phần không nhỏ trong đó là những thành tựu do đồng bào các dân tộc thiểu số góp sức. Chính vì vậy những năm qua Lai Châu luôn đặc biệt quan tâm tới công tác tôn vinh cũng như phát huy các giá trị văn hóa của đồng bào các dân tộc dân tộc thiểu số trên địa bàn.

Xem thêm

Xây dựng bản văn hóa gắn với quảng bá tiềm năng, thế mạnh phát triển du lịch

Đó là cách làm không mới nhưng đã thiết thực góp phần bảo tồn, phát huy, bản sắc văn hóa các dân tộc; đẩy lùi hủ tục lạc hậu, tệ nạn xã hội ra khỏi đời sống cộng đồng, đồng thời hình thành nếp sống mới văn minh, lành mạnh, giầu bản sắc văn hóa để thu hút khách du lịch đến khám phá trải nghiệm mà Lai Châu đã làm được trong thời gian qua.

Xem thêm

Sức mạnh mềm văn hóa góp phần nâng cao vị thế đất nước

Phát huy “sức mạnh mềm” văn hóa Việt Nam vừa là yêu cầu, vừa là giải pháp để thực hiện khát vọng xây dựng đất nước trong giai đoạn hiện nay, đồng thời góp phần nâng cao vị thế, uy tín của đất nước. Chắc chắn những giá trị vốn có ấy của dân tộc sẽ tiếp tục được giữ gìn, phát huy trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế.

Xem thêm

Gắn kết di sản văn hóa với kinh tế du lịch

Một trong những giải pháp mà Lai Châu đã triển khai thực hiện hiệu quả trong việc bảo tồn di sản văn hóa chính là gắn kết di sản với phát triển kinh tế du lịch và khai thác bền vững các giá trị di sản bằng cách dựa vào cộng đồng. Bởi trong sự phát triển của nền kinh tế thị trường, chúng ta phải biết cách biến di sản thành tài sản, biến tài nguyên thành tài chính, biến văn hóa thành hàng hóa, biến môi trường thành thị trường.

Xem thêm